Nguyễn Trãi Quốc Âm Từ Điển
A Dictionary of 15th Century Ancient Vietnamese
Trần Trọng Dương.

Quốc Ngữ hoặc Hán-Nôm:

Phần giải nghĩa Trương Hàn
la ỷ 羅綺
dt. la đều là lụa gấm, trỏ quần áo nói chung. Trương Hành 張衡 đời Hán trong bài Tây kinh phú 西京賦 viết: “mới dần tiến mà thân héo mòn, dường chẳng mang nổi xiêm áo” (始徐進而羸形,似不任乎羅綺 thuỷ từ tiến nhi luy hình, tự bất nhậm hồ la ỷ). la ỷ sau còn trỏ cảnh phồn hoa đô hội. Hoàng Tiểu Phối 黄小配 trong bài ‘tập tải phồn hoa mộng’tự có câu: “thương thay một cảnh phồn hoa, ngoảnh đầu thôi cũng đã là khói mây” (最憐羅綺地,回首已荒烟 tối liên la ỷ địa, hồi thủ dĩ hoang yên). Ngựa ngựa xe xe la ỷ tốt, dập dìu là ấy chiêm bao. (Thuật hứng 52.7, 55.5, 68.3).
thuần lô 蓴鱸
dt. tức Thuần canh lô khoái 蓴羹鱸膾. Sách Thế Thuyết Tân Ngữ phần Thuyết giám ghi: Trương Hàn 張翰 giỏi văn chương, tính phóng khoáng, không câu nệ nhỏ nhặt. Ông vào đất Lạc, Tề Vương Quýnh vời đến cho giữ chức thuộc quan. Quýnh từng nói rằng: “Thiên hạ loạn lạc, mối hoạ chưa định được, phàm người có tên tuổi trong bốn bể cầu được lui về mà hưởng an nhàn là rất khó.” rồi nhân một buổi gió thu bắt đầu thổi, trương hàn nhớ món canh rau thuần, gỏi cá vược quê nhà. Ông than rằng: “Đời người ta quý nhất là được thỏa chí, sao có thể chịu trói buộc mình ở ngoài ngàn dặm mà cầu danh cầu tước.” (人生貴在適志,何能羈宦數千里以要名爵乎!). Đoạn ông sai người nhà thắng ngựa, chuẩn bị hành lý rồi bỏ quan trở về quê cũ. Mừng cùng vượn hạc quen lòng thắm, đã kẻo thuần lô bảo hạn về. (Tự thán 109.6). Còn gọi Thuần canh lô khoái 蓴羹鱸膾 hay thuần lô thu tứ 蒓鱸秋思.